Thời kỳ và tính chất của lò gốm Nhữ
Năm 2000, trong cuộc khai quật tại khu vực sản xuất gốm Nhữ, chúng tôi đã chia ra hai giai đoạn phát triển dựa trên mối quan hệ đan xen giữa các tầng đất và di chỉ. Giai đoạn đầu tiên là giai đoạn sản xuất gốm men xanh da trời, gốm men xanh đậu và xanh đậu khắc hoa. Số lượng men xanh và xanh đậu ít, dấu vết hỗ trợ nung khá lớn, bát nung khai quật chủ yếu có màu nâu đỏ, bề mặt không phủ bùn chịu nhiệt, đều dùng chân đế nung, chân đỡ thô và liên kết không chặt, thuộc giai đoạn sơ khai của sứ Nhữ. Trong tầng đất của giai đoạn này đã khai quật được một đồng tiền “Nguyên Phong Thông Bảo”, cho thấy gốm Nhữ không được sản xuất sớm hơn thời gian của vua Thần Tông nhà Tống (niên hiệu Nguyên Phong).
Giai đoạn thứ hai chủ yếu sản xuất gốm men thiên thanh, các kiểu dáng gốm sứ Nhữ truyền thế đều có ở giai đoạn này. Công nghệ nung trở nên trưởng thành, hầu hết các bát nung đều phủ một lớp bùn chịu nhiệt bên ngoài, chân đỡ của bánh lót nung nhỏ và nhọn, xuất hiện thêm vòng lót nung. Dựa trên một số khuôn mẫu khai quật được, nhiều loại gốm ở giai đoạn này sử dụng khuôn, hình dáng cân đối, thành dày mỏng đều, cho thấy mức độ tinh xảo của thợ gốm thời đó. Trong di chỉ thuộc giai đoạn này, đã tìm thấy một đồng tiền đồng “Nguyên Hựu Thông Bảo”, và trong các tầng đất cùng thời gian còn có đồng “Nguyên Phù Thông Bảo” thời Tống Triết Tông và “Chính Hòa Thông Bảo” thời Tống Huy Tông, cho thấy gốm sứ Nhữ đã đạt độ chín muồi trong thời kỳ Tống Triết Tông và Tống Huy Tông.
Trước khi địa điểm lò nung Nhữ ở Thanh Lương Tự, Bảo Phong được xác định là di chỉ lò gốm Nhữ Diêu vào năm 1987, các nhà nghiên cứu đã có nhận định tương đối thống nhất rằng đây là lò nung chuyên cho cung đình Bắc Tống, cụ thể là các tác phẩm truyền thế được lưu giữ tại Bảo tàng Cố cung ở Bắc Kinh và Đài Bắc. Như ông Phùng Tiên Minh đã chỉ ra trong bài báo “Khảo sát di tích lò gốm Nhữ thời Tống tại huyện Lâm Nhữ, tỉnh Hà Nam” xuất bản năm 1964: lò Nhữ gồm hai phần chính, một phần chuyên sản xuất đồ sứ cho cung đình, và một phần sản xuất đồ sứ dân gian, hiện nay gọi là “lò Lâm Nhữ”.
Ông Lý Huy Bỉnh trong cuốn sách “Gốm sứ quan lò thời Tống” của mình không chỉ xác nhận rằng di chỉ lò gốm Nhữ ở Thanh Lương Tự, Bảo Phong là lò quan Nhữ mà còn đề xuất rằng nó chính là lò quan Bắc Tống, kết hợp văn bản lịch sử thì lò Nhữ Diêu với lò quan Bắc Tống là một. “Từ khảo sát của các nhà khảo cổ học có thể chứng minh rằng các hiện vật khai quật tương tự như đồ sứ Nhữ truyền thế trong cung đình, từ đó chứng minh mạnh mẽ rằng di chỉ Thanh Lương Tự, Bảo Phong là lò quan Nhữ. Trong phạm vi di chỉ, ngoài việc khai quật một số lượng đồ sứ quan Nhữ còn thu được nhiều đồ sứ dân Nhữ. Điều này phù hợp với ghi chép lịch sử trong “Thản trai bút hành” rằng Nhữ Châu được lệnh chế tạo đồ sứ xanh, sau đó lập lò “quan” để sản xuất.”
Sau khi di chỉ Thanh Lương Tự, Bảo Phong được xác định là di chỉ lò gốm Nhữ, các tên gọi về lò Nhữ cũng theo đó mà tăng lên, để phân biệt giữa lò quan Nhữ và dân Nhữ, xuất hiện các thuật ngữ như “lò quan Nhữ”, “quan Nhữ lò” hoặc “lò quan Bắc Tống”. Chúng tôi cho rằng, từ thời Tống đến Thanh trong văn bản đều gọi là lò Nhữ, mọi người đã quen và công nhận, không cần thiết phải đổi tên thành “lò quan Nhữ” hoặc “quan Nhữ lò”.